Chỉ định giới tính (tiếng Anh:
Sex assignment), hay còn được gọi là
Chỉ định giới (tiếng Anh:
Gender assignment) là hình thức gán giới tính cho trẻ em sau khi chúng được chào đời.
[1] Việc chỉ định này có thể được thực hiện thông qua
siêu âm. Trong hầu hết các ca sau sinh, bác sĩ sẽ xem xét
cơ quan sinh dục của đứa bé và từ đó chỉ định giới tính cho bé, mà không hề mong đợi sự mơ hồ của bộ phận sinh dục.
[2]Giới tính được chỉ định sau sinh thường đồng nhất với các bộ phận và kiểu hình của cơ thể trẻ. Số lượng trẻ sinh ra là
liên giới tính - khi mà các đặc điểm giới tính của chúng không rơi vào định nghĩa điển hình của
giới tính nam hay
nữ được phát hiện từ khi chúng mới sinh ra - đã được báo cáo rằng chỉ có 0.018% khả năng xảy ra, nhưng thường được ước lượng là khoảng 0.2% có khả năng xảy ra.
[3][4][5] Số lượng các trường hợp được sinh ra có bộ phận sinh dục mơ hồ thường diễn ra trong khoảng 0.02% - 0.05%.
[6] Những trường hợp này khiến việc chỉ định giới tính trở nên phức tạp hơn.
[7] Ngoài ra, những trường hợp liên giới tính khác còn bao gồm những điển hình khác biệt của
nhiễm sắc thể giới tính,
tuyến sinh dục và
nội tiết tố sinh dục.
[3][8] Việc củng cố hình thức chỉ định giới tính thông qua quá trình can thiệp y tế mà không có sự đồng thuận của họ thường được coi là xâm phạm
nhân quyền của những cá nhân ấy.
[9][10][11][12]Hành động chỉ định giới tính thường đi kèm với mong đợi rằng
bản dạng giới của đứa trẻ sẽ đồng nhất với cơ thể vật lý, giới tính được chỉ định và cách nuôi dạy.
[13] Trong 99.7% trường hợp, bản dạng giới của đứa trẻ sẽ đồng nhất với giới tính chúng được chỉ định. Nếu như giới tính chúng được chỉ định không đồng nhất với bản dạng giới của mình, những cá nhân này sẽ là
người chuyển giới hoặc những người
không tuân theo vai trò giới (GNC).
[14][15][16][17] Giới tính được chỉ định của những đứa trẻ liên giới tính cũng có khả năng sẽ mâu thuẫn với bản dạng giới của chúng sau này.
[18]